Stray Kids kỷ niệm 6 năm ra mắt cùng người hâm mộ
2024-03-26
#Tiêu điểm kinh tế l 2018-08-06
Mục đính triển khai mã quản lý của NPS
Cơ quan hưu bổng quốc gia (NPS) của Hàn Quốc đã quyết định áp dụng mã quản lý (stewardship code). Hiện nay, cơ quan này đang sở hữu 635.000 tỷ won (570 tỷ USD) tiền đầu tư của nhiều người nghỉ hưu tại Hàn Quốc. Vào ngày 30/7, Ủy ban quản lý Cơ quan hưu bổng quốc gia (NPSMC) đã quyết định sẽ bắt đầu áp dụng mã quản lý, mở đường cho việc chủ động thực thi vai trò cổ đông lớn tại các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán. Quyết định này dự kiến sẽ tạo ra hiệu ứng dây chuyền đáng kể tại Hàn Quốc. Mã quản lý là một hướng dẫn về các quyền của các cổ đông trong việc quản lý các công ty mà họ nắm cổ phần, giúp tăng cổ tức hơn là chỉ đóng vai trò như một nhà đầu tư tài chính đơn thuần. Mô hình này lần đầu tiên được giới thiệu tại Anh vào năm 2010 và dần dần lan rộng sang các quốc gia phát triển khác như Hà Lan, Canada, Ý và Nhật Bản. Theo một cách tương tự, Cơ quan hưu bổng quốc gia của Hàn Quốc đã quyết định từng bước mở rộng quyền hạn của cổ đông thông qua việc tham gia nhiều hơn vào vai trò quản lý các doanh nghiệp khi cần thiết. Trong mục Tiêu điểm kinh tế tuần này, Giáo sư Kim Yeon-hak, hệ sau đại học khoa Quản lý công nghệ, trường Đại học Sogang giải thích tại sao những nhà điều hành Cơ quan hưu bổng quốc gia lại quyết định áp dụng mô hình còn tương đối mới mẻ này.
Về cơ bản, mục đích là bảo vệ lợi ích của Cơ quan hưu bổng quốc gia như là một cổ đông thông qua việc giám sát quản lý quỹ lương hưu. Trên thực tế, cơ quan này đã xem xét các phương án áp dụng mã quản lý trong một vài năm. Tuy nhiên, các thủ tục pháp lý liên quan tại Hàn Quốc là chưa đầy đủ, trong đó Chính phủ cần phải sửa đổi Luật thương mại và Luật thị trường vốn. Vào đầu năm nay, Tổng thống Moon Jae-in đã chỉ thị Cơ quan hưu bổng quốc gia xem xét việc áp dụng mã quản lý, nhằm tạo điều kiện cải cách cơ chế quản lý.
Tác động dự kiến của mã quản lý trên thị trường chứng khoán
Cơ quan hưu bổng quốc gia của Hàn Quốc là quỹ lương hưu lớn thứ ba trên thế giới, và hiện đang nắm hơn 5% cổ phần tại gần 300 doanh nghiệp được niêm yết trên sàn chứng khoán. Cơ quan này đã bị chỉ trích vì quá thụ động trong việc thực thi vai trò cổ đông của mình, bất chấp việc đang sở hữu một số lượng lớn cổ phần tại nhiều doanh nghiệp. Cụ thể, dù là cổ đông thứ hai của hãng hàng không Korean Air, sở hữu đến 12% cổ phần của doanh nghiệp này, Cơ quan hưu bổng quốc gia đã không thực hiện vai trò của mình, ngay cả khi cổ phiếu của Korean Air bị giảm mạnh do vụ bê bối liên quan đến gia đình chủ sở hữu của tập đoàn này. Tuy nhiên, với việc giới thiệu mã quản lý, tình hình có khả năng sẽ thay đổi. Theo đó, Cơ quan hưu bổng quốc gia sẽ tập trung hơn vào việc chi trả cổ tức cho các cổ đông trong nửa cuối năm nay, và kể từ năm tới, sẽ mở rộng vai trò cổ đông của mình hơn nữa. Từ năm 2020, cơ quan này sẽ có tiếng nói lớn hơn trong việc quản lý các doanh nghiệp mà cơ quan đã rót vốn đầu tư, đưa ra các quyết định phản bác đối với các doanh nghiệp có vấn đề. Ông Kim Yeon-hak giải thích.
Tỷ lệ chi trả cổ tức (DPR) phản ánh lượng cổ tức được trả cho các cổ đông dựa trên thu nhập ròng của doanh nghiệp. Tỷ lệ DPR của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán tại Hàn Quốc đã giảm từ 24% của năm 2016 xuống còn 20% trong năm ngoái. Con số này chưa bằng một nửa tỷ lệ trung bình trên thế giới là 43%. Cụ thể, vào năm ngoái, tỷ lệ DPR của các công ty Nhật Bản là 32%, trong khi của Mỹ và Đức lần lượt là 39% và 41%. Các công ty của Anh có tỷ lệ chi trả cổ tức lên tới 65%, tức là các cổ đông sẽ được chi trả 2/3 thu nhập ròng của công ty. Thậm chí tỷ lệ DPR tại một số nước kém phát triển hơn cũng cao hơn tại Hàn Quốc, chẳng hạn, 57% tại Đài Loan, 42% tại Indonesia, 38% tại Bra-xin, hay 32% tại Trung Quốc. Có thể nói, tỷ lệ chi trả cổ tức tại Hàn Quốc thấp một cách đáng xấu hổ. Tất nhiên, tỷ lệ DPR cao cũng không hoàn toàn là điều tốt, bởi nó phản ánh thực tế là lợi nhuận của công ty chủ yếu được chia cho các cổ đông, thay vì tái đầu tư cho tương lai. Nói cách khác, các công ty không nhất thiết phải cố gắng đạt tỷ lệ DPR thật cao. Tuy nhiên, tỷ lệ DPR 20% của Hàn Quốc vẫn là quá thấp, và cần được nâng lên trong thời gian tới.
Hạn chế của môi trường hiện nay trong việc áp dụng mã quản lý
Tỷ lệ chi trả cổ tức thấp được coi là một trong những yếu tố đằng sau việc các mã cổ phiếu tại Hàn Quốc bị định giá thấp, và quyết định áp dụng mã quản lý của Cơ quan hưu bổng quốc gia có khả năng sẽ cải thiện tình hình hiện nay. Trên thực tế, tỷ lệ chi trả cổ tức của Nhật Bản vào năm 2014 chỉ là 26,1%, nhưng sau khi áp dụng mô hình mã quản lý, tỷ lệ DPR của Nhật Bản đã tăng lên 30,3% vào năm 2016. Do đó, nếu Cơ quan hưu bổng quốc gia tích cực thực hiện vai trò cổ đông của mình, hơn là tư cách một nhà đầu tư tài chính đơn thuần, việc quản lý tại các doanh nghiệp nhiều khả năng sẽ trở nên minh bạch hơn. Tuy nhiên, theo một số nhà phân tích, mã quản lý sẽ khó đạt được hiệu quả như mong muốn trong môi trường hiện nay. Ông Kim Yeon-hak giải thích thêm.
Quỹ lương hưu của Nhật Bản lên tới 1.300 tỷ USD, tức là gấp 2,5 lần của Hàn Quốc. Tuy nhiên, Quỹ lương hưu quốc gia của Nhật Bản chỉ thiết lập các nguyên tắc cơ bản, định hướng, và đầu tư 100% tài sản vào các doanh nghiệp, đồng thời trao quyền quản lý tài sản cho họ. Trong khi đó, tại Hàn Quốc, Cơ quan hưu bổng quốc gia đang kiểm soát 50% tài sản đầu tư trên thị trường chứng khoán, và 50% tài sản còn lại do các cổ đông tại các doanh nghiệp quản lý. Do đó, cấu trúc hiện nay sẽ phụ thuộc vào vai trò quản lý của Chính phủ. Một số người chỉ ra rằng vấn đề hiện nay chính là việc thiếu độc lập trong điều hành Cơ quan hưu bổng quốc gia, và nhiều người lo ngại rằng cơ quan này có thể được sử dụng để phục vụ các chính sách của Chính phủ, thay vì tối đa hóa lợi nhuận kinh doanh. Có thể nói, bối cảnh của Hàn Quốc và Nhật Bản là khác nhau. Theo tôi, với hệ thống hiện tại, Hàn Quốc khó có thể tạo ra hiệu ứng tương tự như Nhật Bản đã đạt được.
Đảm bảo tính độc lập, minh bạch là chìa khóa để thành công
Liên quan đến việc giới thiệu mô hình mã quản lý, nhiệm vụ đặt ra với Cơ quan hưu bổng quốc gia (NPS) là đảm bảo tính độc lập. Hiện nay, cơ quan này đang chiếm tới 7% vốn hóa trên thị thường trong nước và sở hữu khoảng 10% cổ phần tại các tập đoàn lớn. Với ảnh hưởng to lớn như vậy, Chính phủ có thể lợi dụng Cơ quan hưu bổng quốc gia để can thiệp vào việc quản lý các doanh nghiệp. Trên thực tế, NPS vẫn là một cơ quan của Chính phủ, trực tiếp dưới quyền điều hành của Bộ Y tế và phúc lợi Hàn Quốc. Trước những lo ngại của dư luận, Bộ chủ quản cho biết Cơ quan hưu bổng quốc gia sẽ trao cho các doanh nghiệp quyền quản lý tài sản ủy thác để thực thi quyền lợi của mình, nhằm tránh việc can thiệp quá sâu vào việc điều hành các doanh nghiệp. Nói cách khác, Bộ Y tế và phúc lợi sẽ thiết lập một cơ chế để loại bỏ những ảnh hưởng mang tính chính trị trong việc quản lý Cơ quan hưu bổng quốc gia. Theo một số nhà phân tích, Chính phủ cần phải tiến thêm một bước nữa để cải cách cấu trúc và hệ thống quản lý của NPS. Giáo sư Kim Yeon-hak phân tích rõ hơn.
Thứ nhất, cần có một cơ chế để đảm bảo tính độc lập của trụ sở chính của Cơ quan hưu bổng quốc gia. Một số người cho rằng cần phải tách trụ sở chính và biến cơ quan này thành một doanh nghiệp quốc doanh mới. Tuy nhiên, điều đó là chưa đủ. Ngay cả khi doanh nghiệp này được thành lập, việc điều hành nó cũng phải độc lập và không bị Chính phủ hay các Bộ, ban ngành liên quan can thiệp. Một số ý kiến cho rằng Quốc hội, thay vì Chính phủ, sẽ giữ vai trò chỉ định lãnh đạo cho doanh nghiệp trên. Theo đó, nếu lãnh đạo doanh nghiệp được chỉ định dưới sự nhất trí của các đảng đối lập, họ sẽ giữ vai trò trung lập về mặt chính trị và sẽ chuyên tâm vào tối đa hóa lợi nhuận của Cơ quan hưu bổng quốc gia. Thứ hai, cơ quan này cần đầu tư toàn bộ tài sản vào các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán Hàn Quốc, như của Nhật Bản. Nhờ đó, các doanh nghiệp được đầu tư sẽ sử dụng tài sản ủy quyền đó để tập trung vào việc tối đa hóa lợi nhuận và cổ tức, thay vì quá bận tậm vào những mục đích chính sách công. Đồng thời, Cơ quan hưu bổng quốc gia sẽ chỉ thiết lập các nguyên tắc cơ bản của mã quản lý và cho phép các doanh nghiệp chủ động thực hiện quyền sở hữu của mình.
2024-03-26
2016-02-29
2024-03-22