Cục thống kê quốc gia Hàn Quốc ngày 3/11 đã công bố báo cáo thống kê biến động dân số gia đình đa văn hóa năm 2021. Theo đó, số cặp kết hôn đa văn hóa năm ngoái là 13.926 cặp, giảm 2.251 cặp (13,9%) so với một năm trước.
Số cặp kết hôn đa văn hóa đã tăng liên tiếp trong ba năm, từ 21.900 cặp trong năm 2017 lên 24.700 cặp năm 2019. Tuy nhiên, sau khi dịch COVID-19 bùng phát vào năm 2020, số cặp kết hôn đa văn hóa đã giảm xuống 16.177 cặp, mức thấp nhất kể từ khi lập số liệu thống kê liên quan vào năm 2008.
Tỷ lệ kết hôn đa văn hóa chiếm 7,2% trên tổng số cặp kết hôn tại Hàn Quốc vào năm ngoái, giảm 0,3% so với năm trước đó.
Trong đó, cặp kết hôn có vợ là người nước ngoài chiếm nhiều nhất với 62,1%, có chồng là người ngoại quốc chiếm 22%. Có 16% vợ hoặc chồng mang quốc tịch nước ngoài đổi sang quốc tịch Hàn Quốc.
Độ tuổi kết hôn lần đầu của người chồng trong kết hôn đa văn hóa là 35,1 tuổi, thấp hơn 0,9 tuổi so với một năm trước; độ tuổi kết hôn lần đầu ở người vợ là 30,5 tuổi, tăng 1,3 tuổi.
Về chênh lệch tuổi giữa vợ và chồng trong kết hôn đa văn hóa, 71,4% trường hợp có chồng lớn tuổi hơn, chiếm ưu thế. Trường hợp người chồng lớn vợ trên 10 tuổi chiếm 24,8%, giảm 9,4% so với năm 2020.
Xét theo quốc tịch người vợ, Trung Quốc chiếm nhiều nhất với 23,9%, theo sau đó lần lượt là Việt Nam (13,5%) và Thái Lan (11,4%).
Số vụ ly hôn của gia đình đa văn hóa là 8.424 vụ, giảm 261 vụ (3%) so với một năm trước, chiếm 8,3% trên tổng số vụ ly hôn tại Hàn Quốc. Thời gian chung sống bình quân của các cặp vợ chồng đa văn hóa trước khi ly hôn là 9,4 năm, tăng 0,5 năm so với năm trước đó.
Số trẻ sơ sinh thuộc gia đình đa văn hóa năm 2021 là 14.322 trẻ, giảm 2.099 trẻ (12,8%) so với một năm trước, và chiếm 5,5% tổng số trẻ sơ sinh sinh ra tại Hàn Quốc vào cùng năm.
Độ tuổi sinh con bình quân của gia đình đa văn hóa trong năm ngoái là 31,4 tuổi, tăng 0,7 tuổi so với một năm trước. Trong đó, người mẹ mang quốc tịch Việt Nam chiếm 35,7%, Trung Quốc là 16,8% và Philippines là 5,2%.