4 năm trước, gia quyến nạn nhân bị thiệt mạng sau khi bị cưỡng ép lao động trong thời đế quốc Nhật chiếm đóng bán đảo Hàn Quốc đã kiện đòi các doanh nghiệp Nhật Bản bồi thường thiệt hại.
Tòa án sơ thẩm đã bác bỏ đơn kiện của phía nguyên đơn với lý do hết thời hạn có hiệu lực khởi kiện, song mỗi tòa án lại đưa ra tiêu chuẩn để tính thời hạn hết hiệu lực khác nhau.
Một nạn nhân họ Kim đã bị thiệt mạng chỉ hai năm sau khi bị cưỡng chế tới làm việc tại một công trường của một công ty xây dựng Nhật Bản vào năm 1942 ở huyện Puryong, tỉnh Bắc Hamgyong (nay thuộc Bắc Triều Tiên). Ủy ban làm sáng tỏ sự thật về việc cưỡng chế lao động thời đế quốc Nhật năm 2006 đã công nhận người mang họ Kim này là nạn nhân bị cưỡng ép lao động.
5 người thuộc gia quyến của các nạn nhân năm 2019 đã khởi kiện đòi doanh nghiệp Nhật Bản trên bồi thường 73 triệu won (57.000 USD). Tuy nhiên sau hơn ba năm, tòa án sơ thẩm đã bác bỏ đơn kiện của gia quyến nạn nhân. Hội đồng xét xử khi đó giải thích không thể coi quyền yêu sách của công dân Hàn Quốc đối với Chính phủ hoặc người dân Nhật Bản đã chấm dứt hiệu lực theo Hiệp định về quyền yêu sách Hàn-Nhật năm 1965.
Đến năm 2012, Tòa án tối cao Hàn Quốc đã hủy và trả lại vụ kiện, nhằm công nhận quyền đòi bồi thường thiệt hại đối với các nạn nhân bị cưỡng ép lao động, khiến các doanh nghiệp Nhật Bản phản đối quyết liệt. Phải đến ngày 30/10/2018 thì tòa án mới đưa ra phán quyết.
Do đó, gia quyến các nạn nhân tính thời hạn hết hiệu lực là mốc mà tòa đưa ra phán quyết vào năm 2018, trong khi các doanh nghiệp Nhật Bản lấy mốc là năm 2012. Và Tòa án đã đứng về phía các doanh nghiệp Nhật Bản.
Tuy nhiên, Tòa án cấp cao thành phố Gwangju năm 2018 trong vụ kiện của các nạn nhân bị cưỡng ép lao động thời chiến với công ty công nghiệp nặng Mitsubishi Nhật Bản lại lấy mốc thời hạn hết hiệu lực là năm 2018.
Tính đến nay đã có 15 nạn nhân bị cưỡng ép lao động thời chiến được nhận phán quyết từ Tòa án tối cao. Ước tính vẫn còn hơn 1.000 nạn nhân vẫn đang trong quá trình khởi kiện.