Quan hệ Hàn-Nhật trong suốt 20-30 năm đầu là Seoul phụ thuộc hoàn toàn vào Tokyo
22/6 là ngày đánh dấu 50 năm Hàn Quốc và Nhật Bản bình thường hóa quan hệ ngoại giao song phương. Hiệp ước về quan hệ cơ bản giữa Hàn Quốc và Nhật Bản (gọi tắt là Hiệp ước Hàn-Nhật) được ký kết vào ngày 22/6/1965, với mục đích khôi phục lại quan hệ ngoại giao giữa hai nước vốn bị gián đoạn do thực dân Nhật Bản xâm chiếm bán đảo Hàn Quốc. Mặc dù vẫn còn những mâu thuẫn về lịch sử, song cả hai quốc gia đều đã trải qua thời kỳ tăng trưởng ấn tượng và trao đổi kinh tế song phương cũng có những cải thiện vượt bậc. Thế nhưng, sự mất giá của đồng yen gần đây do Chính phủ Nhật Bản thực hiện chương trình nới lỏng định lượng và kéo theo đó là tình trạng khó khăn của xuất khẩu Hàn Quốc đang là bài toán cho nền kinh tế Hàn Quốc. Ông Lee Ji-pyong, một Hàn kiều tại Nhật Bản và là nghiên cứu viên cao cấp thuộc Viện nghiên cứu kinh tế LG, sẽ cùng chúng ta nhìn lại những thăng trầm kinh tế của Hàn Quốc và Nhật Bản trong nửa thế kỷ qua.
Vào thời điểm năm 1965, Nhật Bản đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao do nảy sinh nhu cầu thời kỳ hậu chiến tranh Triều Tiên. Tokyo lúc này đã có đủ tiềm năng để viện trợ hoặc thúc đẩy các quốc gia láng giềng thực hiện công nghiệp hóa. Trong khi đó, Seoul vẫn đang vật lộn để khắc phục hậu quả của chiến tranh và cần nhiều tiền để xây dựng cơ sở hạ tầng. Do đó, một hiệp ước được ký kết giữa hai quốc gia giúp Hàn Quốc nhận được nhiều vốn và hỗ trợ tài chính cần thiết từ Nhật Bản, mở rộng nền tảng công nghiệp cho nước nhà. Nhìn chung, quan hệ đối tác giữa Seoul và Tokyo vào thời điểm đó là Nhật Bản cho vay tiền và Hàn Quốc tận dụng tối đa nguồn hỗ trợ để mở rộng nền tảng công nghiệp. Trong những năm tiếp theo, các sản phẩm của Seoul hoàn toàn phụ thuộc vào các nguyên vật liệu, linh kiện nhập khẩu từ Tokyo và các doanh nghiệp Nhật Bản cũng coi Hàn Quốc như một đầu cầu để vươn ra thị trường mới.
Từ quốc gia nhận hỗ trợ vốn và kỹ thuật thành đối thủ cạnh tranh
Mối quan hệ kinh tế phụ thuộc lẫn nhau giữa Hàn Quốc và Nhật Bản ngày nay được khởi nguồn từ thời kỳ chiến tranh Triều Tiên (1950-1953). Sau khi bại trận trong Thế chiến II, Tokyo nhanh chóng tái thiết nền kinh tế thông qua việc cung cấp vật tư, dịch vụ cho quân đội Mỹ và quân Liên hợp quốc giai đoạn chiến tranh Triều Tiên. Mặt khác, đứng lên từ đống tro tàn của chiến tranh, Hàn Quốc phải phụ thuộc vào sự hỗ trợ kỹ thuật và tài chính từ Nhật Bản kể từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ ngoại giao vào năm 1965. Với khoản tiền bồi thường 500 triệu USD từ Hiệp định về quyền yêu sách Hàn-Nhật, Hàn Quốc đã xây dựng được đường cao tốc Gyeongbu, nối thủ đô Seoul và thành phố cảng biển Busan ở miền Nam, thành lập công ty thép POSCO và xây dựng hàng loạt cơ sở công nghiệp trên toàn quốc. Trong những năm 1970, Hàn Quốc đã xuất khẩu nhiều sản phẩm hoàn chỉnh ra toàn thế giới bằng các vật liệu và linh kiện nhập khẩu từ Nhật Bản. Có thể nói, quan hệ song phương trong những năm đầu bình thường hóa là quan hệ phụ thuộc một chiều. Tuy nhiên, trong thập niên 1970, 1980, kinh tế Hàn Quốc đã tăng trưởng với một tốc độ ấn tượng, biến quan hệ giữa hai nước từ phụ thuộc một chiều sang cạnh tranh bình đẳng. Nhà nghiên cứu Lee Ji-pyong cho biết:
Vào những năm 1990, Nhật Bản tập trung nâng cấp ngành công nghiệp hiện có, không nỗ lực nhiều để tạo ra các ngành công nghiệp mới khác, khiến nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái kéo dài. Trong khi các công ty Nhật Bản đạt đến độ bão hòa thì Hàn Quốc lại đẩy mạnh đầu tư vào công nghệ cao và bắt đầu tăng tốc để đuổi kịp đối thủ Nhật Bản, giúp thu hẹp khoảng cách kinh tế giữa hai quốc gia. Cụ thể là các nhà sản xuất chíp bán dẫn như Samsung đã vượt mặt các công ty Nhật Bản. Ngoài ra, gần đây nhà sản xuất màn hình của Hàn Quốc đã nhảy lên thứ hạng số một thế giới.
Đồng yen yếu đi khiến quan hệ kinh tế Hàn-Nhật lung lay
Sau khi đầu tư mạnh vào ngành công nghiệp hóa chất từ những năm 1970, Hàn Quốc đã nuôi dưỡng những công ty như Samsung, Hyundai, LG và SK trở thành những gã khổng lồ công nghiệp. Vào những năm 1990, việc Chính phủ tập trung hỗ trợ cho các công ty mạo hiểm và công ty IT đã đưa Hàn Quốc lên vị trí thứ 13 thế giới về Tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Trong khi đó, Nhật Bản trải qua giai đoạn suy thoái, được gọi là “thập kỷ mất mát” từ năm 1991 đến năm 2002, tạo cơ hội cho Hàn Quốc tăng khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế. Năm 1993, Công ty điện tử Samsung đã vươn lên vị trí hàng đầu thế giới trong ngành công nghiệp chip nhớ, vượt qua nhiều gã khổng lồ công nghệ của Nhật Bản. Năm 1998, POSCO đã chiếm lĩnh vị trí số một thế giới về sản lượng gang thép mà Tập đoàn thép Nippon nắm giữ trước đó. Nửa cuối thế kỷ trước đã chứng kiến sự chuyển biến quan hệ kinh tế giữa Hàn Quốc và Nhật Bản lên tầm “cạnh tranh và hợp tác”. Tuy nhiên, sự mất giá đồng yen gần đây lại một lần nữa làm đảo ngược dòng chảy kinh tế của hai quốc gia. Chuyên gia Lee Ji-pyong cho biết thêm:
Quy mô hợp tác kinh tế và thương mại giữa Hàn Quốc và Nhật Bản gần đây đang thu hẹp lại do những tranh chấp chính trị và vấn đề đồng yen mất giá. Giá trị của đồng yen trong vài tháng qua đã giảm 40% khiến cho đồng won tăng mạnh, làm suy yếu khả năng cạnh tranh về giá sản phẩm của Hàn Quốc trên thị trường toàn cầu. Ngoài ra, doanh thu các mặt hàng điện thoại di động và thiết bị thông minh của Hàn Quốc vốn chiếm thị phần lớn tại Nhật Bản hiện cũng đang giảm dần. Nguyên nhân của hiện tượng này có thể phần nào do sự suy yếu của làn sóng văn hóa Hàn Quốc Hallyu tại Nhật Bản.
Vì quan hệ đối tác trong tương lai
Năm 1965 khi Hiệp ước Hàn-Nhật được ký kết, thương mại giữa hai nước chỉ đạt khoảng 220 triệu USD. Đến năm 2014, con số này tăng vọt 390 lần lên 85,95 tỷ USD. Cách đây 50 năm, phụ thuộc thương mại của Hàn Quốc vào Nhật Bản ở mức 34,5%, nhưng vào năm ngoái đã giảm xuống còn 7,8%. Tuy nhiên, từ khi Chính phủ Nhật Bản thực hiện chính sách kích thích kinh tế hay còn gọi là chính sách “Abenomics” vào năm 2012, giá trị đồng yen bị tụt dốc đồng thời khả năng cạnh tranh của các công ty xuất khẩu Nhật Bản tăng lên, đẩy xuất khẩu Hàn Quốc vào tình thế bị tổn thương nghiêm trọng. Tỷ giá hối đoái won-yen đang đứng ở ngưỡng 1.500 won đổi 100 yen vào tháng 6/2012 giảm xuống còn 890 won đổi 100 yen vào ngày 1/6/2015. Những ngành xuất khẩu mà Hàn Quốc đang cạnh tranh với Nhật Bản như ô tô, đóng tàu và các sản phẩm hóa dầu cũng bị bất lợi về giá. Quan hệ thương mại song phương vì thế cũng bị ảnh hưởng. Vào năm 2011, quy mô thương mại của Hàn Quốc và Nhật Bản đạt kỷ lục 108 tỷ USD nhưng trong bốn năm trở lại đây, con số này đã liên tục đi xuống. Liệu hợp tác kinh tế của hai quốc gia đang rơi vào khủng hoảng? Ông Lee Ji-pyong nhấn mạnh:
Nhật Bản hiện vẫn là nền kinh tế lớn thứ ba thế giới, có GDP và thu nhập bình quân đầu người cao cùng tiềm năng lớn về khoa học và công nghệ. Rõ ràng quốc gia này có khả năng khắc phục 20 năm suy thoái và đạt được sự thịnh vượng về kinh tế. Do đó, Seoul cần phải bắt tay với Tokyo đi tiên phong vào những thị trường mới. Đây chính là biện pháp khả thi nhất để xây dựng quan hệ hợp tác đôi bên cùng có lợi. Hiện nay nước Đức đang dẫn dắt cuộc cách mạng công nghiệp thứ tư với trọng tâm là ngành sản xuất hoàn toàn dựa trên công nghệ thông tin và tự động hóa, sử dụng công nghệ in 3D để cho ra đời cách thức sản xuất mới. Trong bối cảnh này, Hàn Quốc và Nhật Bản đều có khă năng đi đầu trong ngành chế tạo toàn cầu.
50 năm qua, Hàn Quốc và Nhật Bản đã trở thành đối tác thương mại lớn thứ ba của nhau. Hai quốc gia vừa có quan hệ đối tác vừa là đối thủ này đang đóng vai trò hết sức quan trọng cho sự phát triển kinh tế của nhau. Chính vì vậy mà tháng trước, Bộ trưởng Tài chính Hàn-Nhật đã có cuộc họp sau hai năm sáu tháng gián đoạn bởi những tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ đảo Dokdo. Nhân dịp kỷ niệm 50 năm bình thường hóa quan hệ ngoại giao song phương, chúng ta hãy cùng hy vọng Seoul và Tokyo sẽ gác lại những khác biệt và mâu thuẫn, hướng tới một tương lai hợp tác đôi bên cùng có lợi.