Giờ đây thơ được coi là thuộc lĩnh vực văn học còn các bài hát thuộc lĩnh vực âm nhạc. Nhưng xưa kia ở Hàn Quốc người ta coi “thơ”(Si) là “tiếng nói của tâm hồn” còn “bài hát” (Norae) là “tiếng ngân nga của lời nói”. Thời đó, người học giả nếu làm thơ thì phải hát được những nội dung này mới được coi là toàn vẹn. Việc hát những áng thơ chữ Hán được gọi là Sichang (thi xướng). Khúc Sichang Gwansanyungma (Quan Sơn nhung mã) được phổ nhạc trên thơ của văn sĩ Shin Kwang-su (1712-1775) hiệu là Seokbuk (Thạch Bắc), sống vào thời vua Yeongjo (Anh Tổ) của triều đại Joseon thế kỷ XVIII. Khi bài thơ chữ Hán “Quan Sơn nhung mã” của Shin Kwang-su đoạt giải nhì trong cửa ải thứ nhất của kỳ khoa cử, người đời sau đó đã ngay lập tức chuyển thành bài hát. Truyền rằng các kỹ nữ thời đó rất hâm mộ và say sưa hát khúc hát này. Khúc Sichang Gwansanyungma mở đầu bằng đoạn:
Sông thu phẳng lặng, cá lạnh băng
Người hóng gió Tây trên lầu gác Jungseon
Hoa mai nở rộ vạn quốc, thường nghe thấy tiếng sáo vang vọng
Chống gậy trúc, theo cánh hải âu suốt quãng đời còn lại
Khúc hát "Nabi, Ggum"(Cánh bướm, giấc mơ) do nhạc sĩ Won Il sáng tác dựa trên câu chuyện của đại triết gia Trang Tử sống trong thời Chiến Quốc ở Trung Quốc, rằng "Tôi sống một kiếp bướm trong mơ, khi tỉnh giấc tôi không nhận ra được mình là bướm hay bướm là mình ...".
* Khúc hát Sichang Gwansanyungma (Quan Sơn nhung mã) / nghệ sĩ Lee Hyeon-ah
* Khúc hát “Tujeongpuri” (Giải ván bài đấu tiền) / nghệ sĩ Yoo Ji-suk
* Khúc hát "Nabi, Ggum"(Cánh bướm, giấc mơ) / nhạc sĩ Won Il sáng tác, trình diễn cùng dàn nhạc Sinawi của tỉnh Gyeonggi